Đá Dữ – Chương 15

ĐÁ DỮ

Tác giả: Thiên Đường Phóng Trục Giả

Dịch: Mặc Thủy

.

Phần 2

Bướm Xám

Năm 1927, Luân Đôn

*

Chương 15

Thành phố sương mù

Năm 1927, Luân Đôn.

Sương mù là bóng ma lang thang trên đường phố của thành phố này, những ngọn đèn khí đốt tạo ra ánh sáng mờ ảo.

Những ngôi nhà hai bên đường im lìm trong sương mù, thấp thoáng không rõ trông như từng con quái vật, ánh đèn chiếu sáng trong các ngôi nhà là đôi mắt của chúng đang quan sát thế giới.

“Dừng… tránh ra!”

Một chiếc xe ngựa chạm khắc tối màu lao nhanh suýt tông vào một đứa trẻ đang bán báo, người đánh xe mặc áo khoác ngắn màu đen, tức giận thò đầu ra cho nó một roi.

Đứa bé rất lanh lợi, vừa chạy vừa giữ chặt túi đựng đầy báo.

Sau đó trước mắt bỗng tối đen, thằng bé bán báo đụng phải một người đàn ông trên phố. Sương mù che khuất khuôn mặt người đàn ông, khi cậu bé ngẩng đầu lên, nó chỉ có thể nhìn thấy cổ áo khoác đen dựng đứng.

“Xin lỗi, thưa ông!” Thằng bé bán báo sợ hãi lùi lại một bước. Hôm nay trời lạnh thật, thằng bé nghĩ thầm, quần áo của quý ông này lạnh đến nỗi có cảm giác như sắp đóng băng. Sợ bị đánh, nó rụt cổ lại, chuẩn bị sẵn sàng để bỏ chạy.

Lúc này, một bàn tay đeo găng tay da màu nâu vươn ra trước mặt nó, trên đó có hai đồng xu.

“Một tờ The Times.”

“Vâng thưa ông.” Mắt thằng bé sáng lên, nó nhanh chóng nhận lấy đồng xu. Vì hôm nay sương mù quá dày, bán báo ven đường chẳng được bao nhiêu, nó đánh liều hỏi: “Ông có cần The Daily Telegraph không? Chỉ với một penny thôi, ông có thể xem thêm tin tức, bao gồm cả cuộc phỏng vấn mới nhất về vụ tranh chấp quyền thừa kế của gia tộc Brandon!”

Người đàn ông không nói gì, lấy ra một đồng xu khác.

Thằng bé vui vẻ nhận tiền, rút từ trong túi ra một tờ báo khác vẫn còn mùi mực.

Người đàn ông mở tờ báo ra, ánh sáng mờ mờ ở đây dường như không có ảnh hưởng gì tới y.

Thằng bé bán báo vừa quay đầu lại vừa bước đi, nhưng sương mù dày quá, nó không thể nhìn thấy gì chỉ sau vài bước.

“Ủa?” Nó chợt cúi đầu nhìn tiền trong tay mình, vẻ mặt mờ mịt.

“Sao trong tay mình lại có ba penny? Vừa rồi bán được bao nhiêu tờ báo rồi?” Thằng bé suy nghĩ rất lâu, nhưng chỉ nhớ rằng mình suýt bị tông khi đang băng qua đường, còn đồng xu đó từ đâu ra thì chịu, có lẽ vừa nhặt được.

Trong túi vẫn còn rất nhiều báo buổi sáng chưa bán được, không có thời gian để ngồi yên, thằng bé nhét mấy đồng xu vào túi, cao giọng rao: “Bằng chứng mới trong vụ tranh chấp quyền thừa kế của gia tộc Brandon đây, mau đến xem nào, The Daily Telegraph có ghi lại đầy đủ về vụ án, mỗi tờ chỉ tốn một penny!”

Mặt trời dần dần nhô lên, sương mù tan đi một chút, xe ngựa trên đường phố ngày càng nhiều.

Một cỗ xe ngựa bốn bánh rung chuông đồng dừng lại trên đường.

Người đánh xe nhìn thấy một quý ông đội mũ chóp, mặc áo khoác đứng bên đường, ông ta hơi kinh ngạc, bởi vì những người như vậy thường có người hầu riêng, nếu buổi sáng muốn ra ngoài, người hầu sẽ gọi xe ngựa đến trước cửa nhà. Còn những chiếc xe ngựa công cộng đông đúc và bẩn thỉu thì hoàn toàn không nằm trong suy nghĩ của họ, sao lại có người đứng đợi trên đường?

“Thưa ông, ông có cần xe ngựa không?” Người đánh xe lên tiếng mời khách.

Người đàn ông đang cầm một tờ báo trên tay, như đang đọc nó, y ngẩng đầu lên khi nghe thấy âm thanh. Đôi mắt xanh nhạt ánh lên vẻ nghi hoặc, như thể đang dò xét người đánh xe ngựa.

Đúng lúc người đánh xe cảm thấy hối hận thì người đàn ông nọ cất tờ báo đi, bước đến cạnh xe ngựa.

“Quảng trường Trafalgar, phố Charing Cross.” Y không hỏi giá mà lên xe luôn.

Người đánh xe có hơi bất an, ông ta cảm thấy quý ông này chắc chắn có địa vị cao, mà ánh mắt lại đáng sợ. “Được thưa ông. Đường rất xa, ông có thể nghỉ ngơi trên xe ngựa một lát.”

Chiếc xe lắc lư chạy qua đường lớn phố nhỏ của Luân Đôn.

Đèn khí đốt đã tắt, trên đường có thêm nhiều người đi bộ. Mọi người bước ra khỏi lớp sương mù dày, rồi vội vàng biến mất trong sương mù.

Thành phố này thật đặc biệt… nó có mùi đặc biệt… Nhưng qua cửa sổ xe, không thể nhìn thấy gì nhiều, mùi của tồn tại huyền bí ẩn hiện trong sương mù.

Người đánh xe đột nhiên nghe thấy hành khách của mình gõ vào thành xe, vội vàng tập trung tinh thần chuẩn bị nghe lệnh.

“Trên đường vừa đi qua có thứ gì không?”

Giọng nói của y nhẹ nhàng và điềm tĩnh, mỗi từ ngữ đều nghiêm cẩn, thể hiện sự giáo dục tốt.

Người đánh xe đã ngầm chắc chắn rằng quý ông này có địa vị khác thường, đồng thời cung kính trả lời: “Đó là Hoa viên của phu nhân Dutt, một salon* rất có tiếng ở Luân Đôn.”

* Salon: là một hình thức tụ họp giao lưu, tập trung nhiều người do chủ nhà tổ chức. Salon lần đầu tiên xuất hiện ở Ý vào thế kỷ 16, sau đó phát triển mạnh mẽ ở Pháp trong suốt thế kỷ 17 và 18. Salon là một nơi quan trọng để trao đổi ý tưởng. Nói chung nó là nơi người ta tập trung lại để giao lưu học tập, chứ không phải salon theo nghĩa thời nay.

Gọi là salon, thực chất là kỹ viện cao cấp. Giống như những câu lạc bộ khác ở Luân Đôn, khách cần có người giới thiệu mới được vào. Còn tầng lớp như người đánh xe ngựa thì chỉ có thể lảng vảng quanh cửa vài lần.

“Ông đã đến Hoa viên của phu nhân Dutt chưa? Khung cảnh ban đêm khác với ban ngày, hôm nay sương mù dày quá, rất khó nhận ra…”

Người đánh xe chưa kịp nói xong thì một tiếng hét xuyên thấu từ ngoài đường truyền đến. Sau đó có một loạt tiếng động lớn như có ai đó đang chạy, nhưng không thể nhìn rõ.

Tút, tút… Ai đó đã thổi còi cảnh sát.

Lúc này xe ngựa đã đi qua con đường này, người đánh xe muốn hóng chuyện nhưng lại không có cách nào quay đầu lại.

“Trời ạ, xảy ra chuyện rồi.” Người đánh xe thấp giọng nói: “Có thể là cướp, cũng có thể là giết người.”

“Giết người?”

“Đúng, ở đây trước kia từng xảy ra một vụ án cướp của giết người, xảy ra vào lúc sáng sớm sương mù dày đặc nhất, lúc phát hiện thì thi thể đã cứng ngắc.” Người đánh xe nói xong, thấy hành khách của mình không phản ứng nên lập tức lúng túng giải thích: “Xem đấy, tôi không nên nói những điều làm người ta mất vui như thế, Hoa viên của phu nhân Dutt thật sự rất tốt đấy, có danh tiếng tốt ở Luân Đôn.”

Người đàn ông trong xe vẫn không trả lời, hình như đang ngủ.

Nửa tiếng sau, đã đến phố Charing Cross.

Người đánh xe đang định hỏi số nhà cụ thể thì một chiếc găng tay da màu nâu thò ra khỏi thùng xe với bốn shilling trên đó. Người đánh xe nhận tiền, lén đánh giá vị khách kia.

Người nọ không đợi ông ta thả thang ra, mà nhảy thẳng xuống khỏi xe ngựa. Cổ áo khoác nhung dày lật lên, dáng người cao lớn, tay cầm một cây gậy batoong gỗ trăn có gắn một viên Sapphire trên đầu. Y có chiếc mũi cao, vẻ ngoài điển trai và đôi mắt xanh lam nhạt rất đặc biệt.

“Bánh sau của cỗ xe nên được sửa chữa.” Người đàn ông để lại một câu, rồi bước vào màn sương mù dày đặc.

Người đánh xe rùng mình một cái, phát hiện mình đang đứng sững sờ phía sau xe ngựa.

“Này, anh đang làm gì vậy?” Một chiếc xe ngựa khác đi ngang qua, người đánh xe trên đó thò đầu ra chào.

“Bánh xe của tôi bị hư rồi.”

Người đánh xe trả lời, ông ta nhìn kỹ bánh xe thì phát hiện quả thật có một phần bị lỏng ra, cần phải nhanh chóng sửa chữa, nếu không có thể xảy ra tai nạn bất cứ lúc nào.

“Kỳ lạ, bánh xe bị lỏng kiểu này rất khó phát hiện, làm sao mình biết bánh xe có vấn đề? Mình đưa khách đến phố Charing Cross sao?” Người đánh xe rơi vào tình trạng bối rối, nghi ngờ rằng hôm nay mình vẫn chưa tỉnh táo.

Người đàn ông cầm gậy batoong nạm sapphire đã bước vào phố Charing Cross. Y không dừng lại quá lâu trước những cửa hàng sang trọng, mà đi bộ thẳng đến những con hẻm chật hẹp phía sau các cửa hàng. Con đường dần trở nên kém gọn gàng hơn, nước đọng và vết bẩn xuất hiện trên mặt đường.

Trước cửa một khu chung cư cũ, một người phụ nữ xách giỏ đang tranh cãi với người buôn vải mà hoàn toàn không nhìn thấy có người đang đến gần mình.

“Chưa đến chín giờ đấy!”

Một cái đầu thò ra từ tầng ba của chung cư với mái tóc rối bù, người này dường như muốn nhắc nhở những người bên dưới đừng làm phiền người khác, nhưng vừa liếc xuống đã thấy ngay người đàn ông đội mũ chóp đen đang bước đi rất nhanh.

Cư dân: “…”

Anh bất lực nhìn người đàn ông có đôi mắt xanh nhạt đột nhiên ngẩng đầu lên, sau đó đưa tay nâng vành mũ ra hiệu cho anh.

***

“Chết tiệt, đây là Luân Đôn!”

John nhảy lùi ra khỏi bậu cửa sổ, đi loanh quanh trong phòng. Anh nghe thấy tiếng cầu thang kêu cọt kẹt, có người lên lầu. Nhưng anh cá rằng không ai có thể nghe hay nhìn thấy vị khách thần bí này.

“…Việc này không hợp lý tí nào. Chẳng phải chuyện thị trấn Đá Ngầm Đen đã kết thúc từ lâu rồi sao?” John ôm đầu và lẩm bẩm một mình.

Đã hai năm kể từ khi anh trở về thị trấn Đá Ngầm Đen, sau khi vụ ủy thác thất bại, John cuối cùng cũng không giải quyết được vấn đề tiền thuê nhà vào cuối năm, đành phải từ bỏ căn nhà riêng và tiếp tục nhận ủy thác dưới tên của một đồng nghiệp khác. Anh thường sống ở đây, trong một khu chung cư cũ.

Ngoài mức sống giảm mạnh, chất lượng nhiệm vụ mà anh nhận được cũng giảm sút. Suy cho cùng, không ai tin vào một thám tử thậm chí còn không có nơi ở riêng, phải treo tên ở văn phòng của người khác. Khách hàng trở thành những thương nhân keo kiệt, giáo viên nghèo, nhân viên đánh máy, nhân viên trong các công ty… Dù sao đi nữa, miễn là phí ủy thác khác tốt thì sẽ không đến lượt John.

Không ngờ, trước khi viễn cảnh sa sút của cuộc sống chạm đến đáy, cơn ác mộng từ hai năm trước lại xuất hiện?

Cánh cửa bị gõ hai lần. Không nhẹ cũng không mạnh, rất lịch sự.

John chẳng muốn mở cửa, mà chỉ muốn nhảy thẳng ra khỏi bệ cửa sổ, anh biết một lối thoát an toàn tuyệt đối. Nhưng đối với một số tồn tại huyền bí, chạy cũng vô ích, trốn cũng không được, bây giờ y đã tìm đến cửa rồi, chỉ có thể chịu đựng.

John mở cửa.

“Xin chào, bác sĩ Johnson.” John gọi danh xưng được sử dụng khi họ gặp nhau lần đầu, cố nặn ra một nụ cười gượng gạo.

“Xin chào, ta không phải bác sĩ, anh đã biết.”

Johnson bỏ mũ ra, nhìn quanh phòng. Phòng khách rất nhỏ, có lò sưởi, bàn ăn, một chồng báo và sách, không còn chỗ cho bất cứ thứ gì khác.

Johnson bước tới ghế ngồi xuống, nhìn thám tử đóng cửa lại với vẻ mặt cảnh giác. Tay phải của thám tử vẫn còn đút trong túi quần ngủ, Johnson đoán trong đó có giấu một khẩu súng.

“Cẩn thận cướp cò.” Johnson chân thành nhắc nhở.

John: “…”

Johnson đan hai tay lại, nói chậm rãi: “Ta hiểu cảm giác này, nhìn thấy người mình không muốn gặp, tự hỏi liệu người đó có theo dõi mình không, cứ mãi đuổi theo mình hay không, đúng là rất chán nản.”

“Sao trông ngài có vẻ từng trải thế?” John thắc mắc. Anh phát hiện Johnson dường như bị nghẹn, có biểu hiện kỳ ​​lạ.

Johnson nhanh chóng lấy lại bình tĩnh, lấy ra một túi tiền nhung màu tím từ trong áo khoác, đặt lên bàn. Sợi dây cột túi đã lỏng ra, có thể thấy rõ bên trong chứa đầy tiền vàng, túi này có khoảng bốn mươi đồng guinea, đây là thu nhập một năm của nhân viên đánh máy.

“Thù lao cho anh vì đã tìm thấy dầu cá voi ở thị trấn Đá Ngầm Đen.” Johnson móc ra một viên hồng ngọc tinh khiết đã được mài giũa sáng bóng từ trong túi: “Đây là tiền đặt cọc, ta còn có một nhiệm vụ khác cần nhờ anh.”

John: “…”

Lòng anh muốn từ chối, nhưng mắt lại không khỏi bị hấp dẫn bởi đá quý và tiền vàng.

“Thú vị đấy, một tồn tại như ngài còn cần tôi giúp gì nữa?” John ngồi đối diện bàn, nhạy bén chỉ ra mấu chốt của vấn đề.

“Bình thường thì không, nhưng ta đã rước về một rắc rối, để không thu hút sự chú ý của nó rồi bị nó phát hiện, hiện tại ta không thể sử dụng sức mạnh của mình.” Johnson nhìn John như thể đang nhìn vào một công cụ vô cùng hữu ích và tiện lợi: “Và anh quả thực là một thám tử rất có năng lực.”

——————–

Tác giả nói thế này:

Những chú thích hoàn toàn vô ích, có thể bỏ qua:

1 bảng Anh = 20 shilling, 1 shilling = 12 penny

Tiền kim loại, 1 bảng Anh = 1 sovereign, còn có một loại tiền vàng gọi là guinea, đắt hơn một chút, giá trị là 21 shilling

Ngoài ra còn có một loại đồng xu, nửa sovereign, tức là nửa bảng Anh, nếu thấy “cho nửa sovereign làm thù lao” trong tiểu thuyết phương Tây, đừng nghĩ nó có nghĩa là xé tờ tiền làm đôi, cũng không bẻ đôi đồng xu, nó chỉ là một loại mệnh giá.

Vào thời điểm đó, 1 bảng Anh có giá khoảng 1.000 nhân dân tệ ngày nay.

Vì vậy, nếu bạn nghĩ kỹ thì, wow, Johnson đã bỏ ra 12,5 để mua hai tờ báo, đắt quá. Đây đã là một tờ báo rẻ tiền sau khi thuế tri thức nước Anh được bãi bỏ vào năm 1855. Trước đó, mua một tờ báo có thể có giá 30.

Ngày nay bạn mua tờ The Times ở ven đường bên Anh, giá khoảng 1 bảng Anh đến 1,5 bảng Anh, nếu quy đổi ra sẽ có giá 8 tệ đến 13 tệ, chưa tính đến sức mua và mức thu nhập, chỉ tính giá cả.

Ngoài lề:

Johnson: Thành phố này có gì đó không ổn.

Johnson: Đứng bên đường mà cứ luôn bị nhìn thấy.

Johnson: Buộc phải trả tiền (thật ra không phải) để mua báo + đi xe ngựa

Người dịch:

Mò mãi mới ra cái quỷ “sovereign”: nó là đồng vàng nha quý vị, giá trị bằng 1 bảng Anh và có một tí xíu vàng trong nó.

Anh John thực sự là thám tử giỏi đấy, anh chỉ xui vì đụng phải vợ chồng nhà này thôi.

~*~

Chương sau

Leave a Reply